Thơ Bút Tre, từ chỗ vui đùa dễ dãi đã thành một trường phái thơ. Có lẽ đây là trường phái thơ có đông môn đồ nhất ở làng thơ Việt Nam. Tìm về nguồn gốc thơ Bút Tre, chúng ta hãy xem qua trích đoạn phỏng vấn nhà thơ Trần Đăng Khoa của web vannghesontay trong bài viết "Nhớ cụ Bút Tre":
"Lê Kỳ (Hà Nội):Người ta bảo "Thơ hay là thơ dễ thuộc". Thơ Bút Tre có rất nhiều người thuộc, vậy có phải là thơ hay không? Anh có bình luận gì về ông Bút Tre và thơ Bút Tre.?
Trần Đăng Khoa:
Thơ hay tất nhiên sẽ có nhiều người thuộc và lưu truyền. Nhưng thơ dễ thuộc và được nhiều người thuộc cũng chưa chắc đã là thơ hay. Tôi thuộc thơ, thường chỉ đọc một lần là thuộc ngay. Loại thơ ấy thường ở hai thái cực. Hoặc là cực hay và hoặc là cực dở. Thơ Bút Tre không nằm ở hai dạng này. Phải xếp Bút Tre vào một chiếu riêng. Đó là một dòng thơ dân gian. Đọc là cười. Nhưng Bút Tre lại là con người có thực. Tên thật của ông là Đặng Văn Đăng (1910-1987). Ông từng nhiều năm làm Trưởng ty Văn hoá tỉnh Phú Thọ. Đó là một cán bộ tận tuỵ, được nhân dân tin cậy yêu mến. Ông đã có công ghi lại câu nói bất hủ của Bác Hồ ở Đền Hùng: "Các Vua Hùng đã có công dựng nước. Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước".
Những lúc rỗi rãi, xuống cơ sở, ông hay làm thơ. Thơ ông thường nệ theo vần. Và muốn giữ vần, để thật có vần, nhiều khi ông phải bẻ câu, bóp chữ, thậm chí là cưỡng chữ, miễn là làm sao nhét cho vừa cái khuôn vần. Chính vì thế mà con chữ hoá dị dạng, nhiều khi biến cả nghĩa, tạo thành tiếng cười thật vui vẻ. Việc làm của Bút Tre vô tình đã khởi nguồn một dòng thơ ca dân gian hiện đại. Những bài hay nhất, buồn cười nhất lại thường của Bút Tre rởm. Đó là các thi sĩ thứ thiệt nhại theo giọng Bút Tre. Dòng thơ này càng ngày càng lớn và rất phong phú. Gần đây, đến Tam Đảo, tôi lại được nghe dân chúng truyền nhau bài thơ mới của Bút Tre viết về khu nghỉ mát này. Nhưng truy ra thì hoá thơ thi sĩ nổi tiếng Trần Lê Văn:
Không đi không biết Tam Đao (Tam Đảo).
Đi thì chẳng biết chỗ nào mà ngu (ngủ).
Một giường nó nhét hai cu (hai cụ).
Thôi thì cố chịu đến chu nhật về (chủ nhật)...."
Một số thơ khuyết danh theo trường phái Bút Tre:
Chồng người du kích sông Lô
Chồng em ngồi bếp nướng ngô cháy quần
Sông Cầu nước chảy lơ thơ
Có đôi trai gái ngồi hơ quần đùi
Hoan hô đồng chí Phạm Tuân
Bay vào vũ trụ một tuần về ngay
Khoa học thời đại lên cao
Anh Ga ga rỉn bay vào vũ tru
Tiễn anh lên bến ô tô
Đêm về em khóc ... tồ tồ cả đêm
Hoan hô cục trưởng Hà Đăng
Ấn cho tàu chạy băng băng như rùa
Hoan hô anh La Văn Cầu
Cánh tay bị đứt nhưng đầu vẫn nguyên
Ngọt ngào bóc múi em ra
Mời nhau cặp bưởi, chút quà Hùng Đoan
Ta đi bầu cử tự do
Chọn người xứng đáng mà cho vào hòm
Nhớ quê ra đứng đỉnh đèo
Bỗng đâu thấy một chú mèo gâu gâu
Hoan hộ đại tướng Võ Nguyên
Giáp ta thắng trận Ðiện Biên trở về
Ở trong hang đá đi ra
Vươn vai một cái rồi ta đi vào
Bốn ông chung một đĩa lòng
lợn ngồi chễm chệ với thùng bia to
Hôm qua em đến đồi Lê
-Nin ngồi đợi mãi, đành về lại ky
Túc xá buồn, em xem Nhi
Cu-lin diễn để vơi đi nỗi buồn
Quê Hương thi sĩ Phú Thò(Thọ)
Chè xanh, cọ biếc, mập to trái chuồi ( chuối)
Lòng còn nhớ mãi cái buôi ( buổi)
Đầu làng phân bắc, chăn nuôi đàn bò
Cu Ba lông mượt giống to
Cách màng văn hoá đất tô(tổ) lại càng...
Một ông người Ốt – tra - lây (Australia)
Một ông đích thị là Tây bán nhà (Tây Ban Nha)
Một ông ở xứ buôn gà (Bungari)
Cả ba ông ấy đều là con dê (con rể)
Ba ông chung một lời thề
Làm con dê cụ không về bên Tây (con rể cụ)
Không vô không biết bút tre
Vô rồi mới biết muốn tè ra ngay.
Và đây: chân dung cụ Bút Tre chính hiệu
Ông Đặng Văn Đăng (1910-1987)